|
1.
Mỗi dân tộc đều có một nền văn hoá riêng. Văn hoá là cái không có sẵn trong
trời đất mà do con người sáng tạo trong quá trình ứng xử với thiên nhiên với
đồng loại cũng như trong quá trình nhận thức. Mọi người đều thống nhứt chia văn
hoá dân tộc ra hai loại: văn hoá chánh qui/bác học và văn hoá bình dân/dân
gian.
Phạm vi văn hoá dân gian (VHDG) bao gồm toàn
bộ các phong tục tập quán thể hiện trong lối sống, trong mối quan hệ của con
người với nhau, với tổ tiên, với các lực lượng siêu nhiên mà họ tin tưởng; gồm
toàn bộ tri thức liên quan đến hoạt động sản xuất ra của cải vật chất phục vụ
cuộc sống (ăn - ở - mặc, chữa bịnh…); bao gồm các loại hình văn hoá ngôn từ
truyền miệng và nghệ thuật diễn xướng, hội hè đình đám… Tác giả của nó là lớp
nông dân, bình dân ít học. Mỗi loại hình hoặc từng đơn vị của nó đều ra đời
trong một hoàn cảnh lịch sử - xã hội nhứt định, trên một địa phương cụ thể; sự
hình thành của nó cũng có khi là cả một quá trình, nhưng vẫn diễn ra trong xã
hội nông nghiệp truyền thống, với các thuộc tính của nó. Sau khi hình thành,
VHDG lan toả, giao lưu với người anh em ở các vùng/miền khác dưới sự tác động
của tình hình lịch sử - xã hội liên tục thay đổi.
Như vậy, VHDG là một bộ phận không thể tách
rời của văn hoá mỗi quốc gia, dân tộc. Nó đã khẳng định bản sắc cụ thể của từng
dân tộc, của từng vùng/miền, là căn cước của mỗi dân tộc, làm cơ sở để một dân
tộc hoà nhập với cộng đồng nhân loại mà không tự đánh mất mình. Trong xã hội
hiện đại, di sản văn hoá, trong đó có VHDG, được quan niệm không phải như những
biểu hiện hoài niệm quá khứ, mà là một lực cố kết cộng đồng trong cuộc đấu
tranh vì sự tồn vong và phát triển. VHDG còn là bảng tổng kết kinh nghiệm sống
bao đời để lại; nó chẳng những có giá trị về mặt tinh thần, lịch sử, nghệ
thuật, ứng xử, giáo dục… mà còn có giá trị về kinh tế, nếu chúng ta biết sử
dụng khai thác.
2.
Điều kiện tự nhiên, môi trường, khí hậu… là tác nhân chính đưa đến sự hình
thành nhiều khu vực, vùng miền VHDG khác nhau. Nằm trong vùng đồng bằng sông
Cửu Long (ĐBSCL), đương nhiên VHDG ở Đồng Tháp phải mang đặc điểm của vùng sông
nước này. Thêm vào đó, Đồng Tháp bị sông Tiền chia làm hai mảng, mảng Bắc sông
lại nằm trong vùng trũng Đồng Tháp Mười (ĐTM), có sinh thái đặc biệt với sình
lầy cùng rừng tràm và lau sậy.
Thế
nên vào thế kỷ XVII, XVIII, khi lưu dân người Vịêt vào đây, nhiều người tập
trung khai thác vùng phía Nam sông trước, hoặc nếu có đến vùng Bắc sông cũng
quan tâm khai thác vùng ven sông Tiền, rồi qua các thế hệ sau mới từng bước
tiến vào nội đồng.
Để
phục vụ cuộc sống, mấy trăm năm qua, con người ở đây tác động vào thiên nhiên,
quan hệ với nhau trong điều kiện lịch sử - xã hội của địa phương và của cả
nước... để lại đến nay một kho tàng văn hoá, một di sản văn hoá phong phú, đa
dạng không kém gì các tỉnh lân cận. Bên cạnh các yếu tố chung của vùng ĐBSCL,
do điều kiện vị trí địa lý và môi trường tự nhiên đặc bịêt tác động nên VHDG
Đồng Tháp còn có một số nét riêng, thể hiện rất rõ trong từng lãnh vực.
Ở
Nhựt, người ta gọi di sản văn hoá là tài
sản văn hoá, vừa có ý nghĩa quý hiếm về giá trị tinh thần vừa có ý nghĩa
vốn liếng sinh lợi cho con người về mặt
kinh tế. Di sản này thuộc loại tiềm ẩn trong dân gian. Muốn nhận diện,
nắm bắt cụ thể, phải có quá trình khảo sát nghiên cứu khoa học, có tổ chức, đòi
hỏi tốn kém nhiều công sức và thời gian.
Trong
thời gian qua, tại Đồng Tháp có một số công trình sưu tầm biên khảo về VHDG,
bên cạnh những công trình sử dụng kinh phí nhà nước, có không ít công trình là
công sức cá nhân. Theo thời gian, lần lượt xuất hiện:
- Giai thoại Dân gian Đồng Tháp Mười của Nguyễn Hữu Hiếu (1988) gồm
43 truyện kể gồm các truyền thuyết, giai thoại về đất nước, con người vùng ĐTM.
- Ca dao Đồng Tháp Mười (1988) do Nhóm tác giả thuộc Trường Cao
đẳng Sư phạm Đồng Tháp sưu tầm, biên soạn với hơn 2000 câu ca dao ca ngợi tình
yêu quê hương, đôi lứa, gia đình cùng các mối quan hệ xã hội khác.
- Dân ca Đồng Tháp (1994) do tỉnh chủ trương, Lê Giang - Lư Nhất Vũ
chủ biên, gồm: hát đưa em (15 bài), hát huê tình (5 bài), hò huê tình (10 bài),
hò cấy (22 bài), hò khoan (4 bài), các điệu lý (80 bài), nói thơ (4 bài), hát
đồng dao (20 bài), hát bóng rỗi (1bài), vè (30 bài), thơ rơi (3 bài).
- Thơ văn Đồng Tháp tập I (1986) do tỉnh chủ trương, Nhóm tác giả (giáo
sư Lê Trí Viễn chủ biên) thuộc Trường Đại học Sư phạm TP.HCM và Trường Cao đẳng
Sư phạm Đồng Tháp thực hiện, gồm truyền thuyết với truyện cổ (16), cổ tích
(11), truyện cười (13), câu đố (6 loại, trên 300 câu), vè về chim muông (5 ),
vè thế sự (18), ca dao, dân ca (bốn loại: tình yêu quê hương đất nước, tình yêu
đôi lứa, tình cảm gia đình, các mối quan hệ xã hội khác, gần 1500 câu).
- Làng hoa Tân Quy Đồng Sa Đéc của Lê Kim
Hoàng (1993); sách khổ bỏ túi, ghi nhận lịch sử hình thành làng nghề cùng kỹ
thuật ghép, lai tạo, trồng một số hoa kỉêng.
- Văn hoá Dân gian Đồng Tháp, tập 1 (2005) của nhiều tác giả gồm 32 bài về đất nước
con người, tín ngưỡng dân gian, nghề truyền thống và ẩm thực.
- Truyền thuyết Thiên hộ Dương, Đốc binh
Kiều của Nguyễn Hữu Hiếu (2006) gồm
27 bài với nội dung ca ngợi, truyền tụng thành tích chiến đấu, tấm gương hy
sinh của Võ Duy Dương và Nguyễn Tấn Kiều.
-
Văn hoá dân gian vùng Đồng Tháp Mười (2007)
của Nguyễn Hữu Hiếu, dày 340 trang, gồm sáu chương. Chương mở đầu nói về điều
kiện tự nhiên và tên gọi ĐTM; chương hai nói về di tích văn hóa lịch sử (15),
chương ba: Nhân vật (10), chương bốn: Đời sống vật chất, gồm các nội dung: hoạt
động khai thác lâm thủy sản, hoạt động canh tác, ẩm thực, cư trú và phương tiện
di chuyển; chương năm: Đời sống tâm linh, với các nội dung: Đình làng, tục thờ
Bà chúa xứ, ông Tà, Cúng việc lề, chương sáu: Văn học với truyền thuyết (20) và
văn vần với ca dao, hò, vè, hát bóng rỗi, thơ rơi (mỗi thể loại một vài bài).
- Sự hình thành và phát triển làng đóng
xuồng ghe Long Hậu của Ts. Ngô Văn Bé
(2008). Sách dày 60 trang, nội dung đề cập đến sự hình thành làng nghề cùng kỹ
thuật, kiểu dáng một số loại ghe xuồng và tín ngưõng tâm linh của làng.
- Nghề cá Đồng Tháp Mười năm xưa của Nguyễn Hữu Hiếu (2010) với nội dung gồm sáu mục.
Mục một, giới thiệu điều kiện tự nhiên của vùng ĐTM. Mục hai, mô tả 33 ngư cụ
và cách đánh bắt cá trong mùa khô và mùa nước lên. Mục ba, lược thuật chánh
sách đối với nông dân khai thác cá qua các thời kỳ. Mục bốn, trình bày một số
nghề thủ công với con cá. Mục năm, các món ăn chế biến từ cá tôm. Mục cuối cùng
đề cập đến đời sống tâm linh của những người khai thác cá.
Gần
đây, có một số luận văn tốt nghiệp đại học và sau đại học, khai thác một số đề
tài trong nguồn VHDG Đồng Tháp, cụ thể như:
+
Luận văn Cử nhân, có:
-
Đặc điểm Truyền thuyết Dân gian Đồng Tháp
của Hoàng Thị Hà (2007);
-
Bước đầu tìm hiểu về Đình làng ở Đồng
Tháp của Nguyễn Thị Mỹ (2009);
-Tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển Làng
Hoa kiểng Tân Quy Đông - Sa Đéc của Nguyễn Thị Hồng Phượng (2009);
-
Tìm hiểu về tín ngưỡng Bà Chúa xứ của
Lê Thị Ngọc Phượng và Phạm Quang Trang Liễu (2010)...
+
Luận văn Thạc sĩ, có:
-
Tín ngưỡng dân gian của người Kinh ở
thành phố Cao Lãnh của Nguyễn Thuận Quý (2010);
-
Làng nghề Hoa kiểng Sa Đéc của Nguyễn
Thị Thúy Ngọc (2010);
-
Đình làng vùng Đồng Tháp Mười của
Nguyễn Quang Trình (2010);
- Ngư cụ của nông dân Đồng Tháp từ thế
kỷ XVII - thế kỷ XX của Đường Tiến
Nhanh (2011);
-
Đình làng ở huyện Cao Lãnh của Trần
Văn Chín (2011);
-
Nghề cá Đồng Tháp Mười của Tăng Trung
Nghĩa (2011)...
Ngoài
ra, còn nhiều bài báo, bài viết đã đăng tải trên các báo, trang web về ngành
nghề truyền thống, tín ngưỡng dân gian, ẩm thực... dưới dạng giới thiệu quảng
bá du lịch hơn là nghiên cứu chuyên sâu.
Có
thể nói, toàn bộ các công trình trên chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, những
điều đã khám phá, phát hiện được không thấm vào đâu với cả kho tàng, trong đó
chưa đựng biết bao nhiêu tri thức dân gian quý báu, hết sức cần thiết cho cuộc
sống hôm nay. Không phải ngẫu nhiên mà Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát
triển thế giới năm 1995, đã khẳng định: Các
nhân tố văn hoá là những điều kiện thiết yếu cho sự phát triển bền vững và
trở thành một phần không thể tách rời của
chiến lược phát triển (1).
3.
Việt Nam hiện nay là thành viên của nhiều tổ chức thế giới và uy tín trên
trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Để có thể hội nhập và phát triển trong
bối cảnh toàn cầu hoá, những nước chậm phát triển như Việt Nam phải bước vào
con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Ở Việt Nam, quá trình này không chỉ
diễn ra ở thành thị mà còn ở cả nông thôn, cái nôi sản sinh ra VHDG. Sự thay
đổi nhanh chóng của xã hội đặt văn hoá cổ truyền nói chung, trong đó VHDG trước
nguy cơ bị mai một và trên thực tế đã có một vài loại hình VHDG đã biến mất
hoặc đang trên đà biến mất.
Như
vậy, đặt ra vấn đề bảo tồn và phát triển di sản VHDG ở đây là một điều hết sức
cân thiết và hợp lý. Bảo tồn và phát huy hiện nay là vấn đề thời sự trong lãnh
vực văn hoá và hoạt động văn hoá nói chung. Bảo tồn và phát huy nhằm đạt tới sự
kết hợp giữa truyền thống và hiện đại; tiên tiến mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc.
Nhưng làm sao để kết hợp hai hoạt động thoạt nhìn có vẻ đối chọi nhau là biện
pháp không phải dễ tìm, dễ thực hiện.
VHDG
là sản phẩm của xã hội nông nghiệp cũ. Trong xã hội đó, mối quan hệ giữa người
và người được hình thành một mạng lưới quan hệ và thông qua đó con người xây
dựng mối quan hệ với thiên nhiên và với lịch sử cộng đồng, được huyền thọai hoá
và siêu nhiên hoá. Trong cộng đồng đó, mọi thành viên đều tham gia sáng tạo và
thực hành các hoạt động văn hoá để tự thoả mãn nhu cầu văn hoá của mình. Ngày
nay, chúng ta bước vào xã hội công nghiệp hoá - hiện đại hoá với mức độ phân
công lao động cao, với cơ chế thị trường, với nền sản xuất, lưu thông, trao đổi
hàng hoá và lối sống tiêu thụ cũng xuất hiện. Thêm vào đó, tiến bộ khoa học, kỹ
thuật trong lãnh vực truyền thông cũng góp phần không nhỏ vào quá trình làm
giảm thiểu vai trò của cộng đồng, một môi trường không thể thiếu được trong đời
sống xã hội nông nghịêp truyền thống.
Kết
quả là văn hoá cổ truyền, trong đó có VHDG đã bị tước mất đi cơ sở xã hội vốn có của nó, nơi nó được sanh ra, tồn
tại và phát triển. Nói khác hơn, nó không còn tồn tại một cách nguyên vẹn, một
hệ thống văn hoá hoàn chỉnh như vốn có. Câu hò trên sông nước, trên đồng ruộng
trong mùa cày cấy… sẽ đi về đâu khi trên sông vang đầy tiếng nổ của động cơ
Kholer, BS…, hình ảnh con trâu cày ruộng, đám công cấy lúa đã được thay bằng
máy cày, máy gieo sạ… Tiếng hát ru em không còn vẳng lên giữa trưa hè oi ả hay
trong đêm khuya thanh vắng… vì người mẹ, người dì, người chị đã vào nhà máy,
đến công tư sở, trường học, bà nội, bà ngoại đã ở riêng hoặc vào nhà dưỡng lão
vì cơ cấu gia đình với ba, bốn thế hệ không còn nữa; vì trẻ em đang ngủ ở nhà
trẻ, trường mẫu giáo trong tiếng nhạc ru phát ra từ đầu đĩa CD… Răng đen, ăn trầu…
không còn phù hợp với quần jean, áo thun hở rún, váy đầm và ngoài chợ đã có bày
bán trái cau, lá trầu bằng nhựa… Hình ảnh chiếc cầu khỉ, cầu tre, cây đa bến
nước, đường làng rợp bóng cây xanh… chỉ còn là hoài niệm, khi tuổi trẻ hôm nay
phóng xe như bay trên đường làng lót đan, cầu bê-tông, v.v… Và số phận cũng như
ý nghĩa câu: Qua đình ghé nón trông đình.
Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu sẽ ra sao khi một số đình hiện
nay được trùng tu với cột bê-tông và mái lợp… tôn! V.v…
Thực
trạng trên cho chúng ta thấy rõ ràng là khi mất dần đi cơ sở xã hội ra đời, tồn
tại và phát triển của mình, VHDG đang trải qua quá trình giải cấu trúc. Nó không tồn tại như một thực thể toàn vẹn. Nhưng nó
không mất đi hẳn, những thành phần, yếu tố của nó đang được người đương thời
chọn lọc và đưa nó tham gia vào một quá trình mới, quá trình tái cấu trúc trong văn hoá dân tộc đương
đại (2).
4.
Trong tình hình VHDG không còn là một hệ thống đúng nghĩa như vốn có mà chỉ là
những yếu tố, những thành phần đã bị tách rời khỏi hệ thống đó, một số biểu
hiện, một số hoạt động VHDG cổ xưa đã vĩnh viễn biến mất khỏi đời sống con
người Việt Nam do tính lỗi thời của nó,
như tục nhuộm răng đen (ở miền Bắc), vè, thơ rơi (ở Đồng Tháp, Nam bộ)… sắp
đến là tục ăn trầu… chẳng hạn.
Hiện
trạng này thể hiện qua mấy dạng:
-
Mất đi cơ sở xã hội vốn có, VHDG gian phải trải qua quá trình giải cấu trúc để trở thành những yếu tố
riêng lẻ.
-
Một số yếu tố riêng lẻ này sẽ mất hẳn đi, vì lỗi thời.
-
Một số khác, nhứt là trong các loại hình diễn xướng có điều kiện tồn tại, tham
gia vào quá trình cơ cấu mới của trong nền văn hoá đương đại.
Chúng
ta cũng nhận biết rằng, trong hệ thống VHDG, như trên đã trình bày là mỗi hoạt
động, mỗi loại hình của nó đều được hình thành trong một hoàn cảnh xã hội nhứt
định, ở một vùng/miền nào đó, nên khi ra đời, nó đều gắn liền với một chức
năng, một vị trí xã hội, một hình thức cụ thể.
Do
đó, trong hoạt động bảo tồn và phát huy VHDG, chúng ta có thể tận dụng các đặc
điểm này để chuyển đổi chức năng, vị trí
và hình thức của nó trong quá trình tái
cấu trúc để đưa nó vào nền văn hoá dân tộc đương đại, cụ thể như:
-
Dù ngày nay chức năng ru cho em bé ngủ (trong hát ru em), chức năng làm vơi đi
mệt nhọc khi cấy lúa, chèo ghe của hò… không còn, nhưng những bài hát ru em,
những câu hò, điệu hò… vẫn còn đó với tư cách là những tác phẩm sáng tạo nghệ
thuật chuyển tải tâm tư, tình cảm con người. Như vậy là chúng ta vẫn còn sử
dụng được chức năng sáng tác của chúng. Sáng tác chính là chức năng mới của
chúng.
Cũng
vậy, tục múa bóng hay bóng rổi trong lễ cúng miếu (ngoài xã hội), cúng trang
(trong gia đình), ngày nay cơ sở xã hội vốn có của nó ngày một mất dần đi,
nhưng điệu nhạc, điệu múa nghi lễ của nó, chúng ta có thể sử dụng để biểu diễn
trong các cuộc vui chơi, các tổ chức lễ hội đương đại có tiết mục văn nghệ, còn
lời hát, câu ca của nó chúng ta có thể sáng tác mới sao cho phù hợp với hoàn
cảnh, với mục đích yêu cầu của buổi lễ, giống như các nghệ nhân múa bóng đã
từng sáng tác trước đây. Có thể nói, chúng ta vừa thay đổi chức năng vừa thay đổi
hình thức của tục bóng rổi.
-
Khi nó mang chức năng mới, hoà vào nền văn hoá đương đại, vị trí xã hội của nó
cũng thay đổi, mang vị trí và ý nghĩa mới trong đời sống con người.
-
Đối với các sản phẩm tiểu thủ công, mỹ nghệ của những làng nghề truyền thống
muốn tồn tại, phát triển và hoà nhập vào nền kinh tế thị trường hôm nay, phải
thay đổi mẫu mã, phải thêm bao bì, nhãn mác… Sự thay đổi hình thức này cũng
xuất hiện ở các nghi lễ cúng tế, như rút ngắn thời gian tế lễ, giảm bớt nghi
thức. Như trong tục cúng đình, trước đây khi lệ cúng kỳ yên thường kéo dài ba
ngày, có nơi lâu hơn nữa kèm theo hát bội, còn lệ cúng hạ điền, thượng điền lúc
tế thần phải có học trò lễ; ngày nay hát bội và học trò lễ ngày càng vắng bóng
trong các buổi lễ trọng này.
Tóm
lại, trong tình hình hiện nay, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cổ truyền
trong đó có VHDG là một việc cần thiết phải làm. Song trước hết phải thấy rằng
văn hoá bao giờ cũng là kết quả sáng tạo của toàn dân, nên trong công việc bảo
tồn, phát huy và truyền lại cho thế hệ trẻ di sản quý báu này, sự tham gia của
toàn thể cộng đồng là không thể thiếu được. Bảo tồn và phát huy VHDG là công
việc có nhiều công đoạn, đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian, công sức của toàn xã
hội. Nhưng trước khi bàn đến việc chuyển đổi chức năng, vị trí và hình thức của
VHDG, phải cấp bách tổ chức một cuộc sưu tầm quy mô, nhằm sưu tầm tất cả những
hoạt động, biểu hiện, hiện tượng mà ngày nay còn có thể sưu tầm được bằng
phương tiện hiện đại, rồi tập trung chúng lại dưới dạng ngân hàng lưu trữ tư liệu, làm cơ sở cho các bước tiếp theo. Nếu
không có cơ sở này, công việc bảo tồn và phát huy sẽ khó thực hiện và chúng ta,
những người của thế hệ hôm nay phải chịu trách nhiệm về việc này trước hậu thế.
_______________________
(*) Tham luận tại Hội thảo Văn học - nghệ thuật Đồng Tháp - nhận diện
và phát triển, tổ chức tháng 4.2013.
(1) Theo tạp chí Người đưa tin UNESCO, số 10 - 1995.
(2) Tô Ngọc Thanh - Nguồn sáng Dân gian, số 4/2005, tr. 3-5, 43.
|
|